Những câu hỏi liên quan
Phùng Tuấn Minh
Xem chi tiết
Admin (a@olm.vn)
Xem chi tiết
TRẦN HỒNG ĐIỆP
10 tháng 5 2021 lúc 8:52

Được thể hiện là nàng ngày ngày nhớ về cha mẹ và kim trọng chỉ mong sớm được gặp mọi người gặp cha mẹ để làm tròn chữ Hiếu còn gặp kim trọng để làm tròn chữ tình 

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Lê Thế Hoàng
17 tháng 5 2021 lúc 22:49

- Nhớ Kim Trọng nàng nhớ đến lời thề dưới trăng hôm nào: "Tưởng người dưới nguyệt đồng". "chén đồng" là chén rượu thề đồng lòng đồng dạ , kết duyên đôi lứa trăm năm. Nàng thương chàng Kim ngày đêm mong ngóng tin mình mà vẫn uổng công vô ích 

                     "Tin sương luống những rày trông mai chờ"

- Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" thể hiện tấm lòng son sắc, thuỷ chung của Kiều đối với Kim Trọng không bao giờ nguôi quên

-Kiều xót thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con. Kiều xót thương cha mẹ già yếu không được ai chăm sóc:

                                "Xót người tựa cửa hôm mai

                         Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ"

- Kiều tưởng nơi quê nhà mọi thứ đã đổi thay mà sự thay đổi lớn nhất là cha mẹ đang ngày càng già yếu. Cụm từ  "cách mấy nắng mưa" vừa nói lên thời gian xa cách của Kiều với gia đình đến nay đã bao mùa mưa nắng vừa nói được sự tàn phá của mưa nắng đối với cảnh vật và con người

- Trong cảnh ngộ đáng thương của Kiều, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên đi bản thân mình để nhớ người yêu và cha mẹ. Chứng tỏ nàng là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo có lòng vị tha, đáng trọng

 

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Tuấn Anh
18 tháng 5 2021 lúc 8:26

- Trước hết, tác giả cho người đọc thấy được nỗi nhớ của Kiều về Kim Trọng:

   “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

- Ở hai câu thơ trên, tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc. Tác giả đã sử dụng động từ “tưởng” để diễn tả nỗi nhớ của Kiều về mối tình đầu trong sáng. Kiều đã hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp với Kim Trọng. Đó là một đêm trăng ngời ngời ánh sáng, nàng đã thề nguyền, đính ước cùng Kim Trọng và chén rượu thề hôm nào như hiện về trong kí ức của nàng. Nàng hình dung ra ở Liêu Dương, Kim Trọng đang hướng về nàng, ngày đêm mong tin ngóng bóng. Đây là tiếng nói từ trong sâu thẳm trái tim Kiều. Lời thơ ít nhưng ý thơ nhiều. Trong lời thơ ấy đã thể hiện được tình cảm trong sáng mà Kiều dành cho Kim Trọng.  

- Càng nhớ đến kỉ niệm, càng nhớ về người yêu, Kiều càng thấm thía nỗi cô đơn của mình và càng thêm nuối tiếc về mối tình đầu trong sáng:

       “Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

- Với việc sử dụng từ láy “bơ vơ”, tác giả cho người đọc thấy được tâm trạng cô đơn của Kiều khi sống ở lầu Ngưng Bích. Câu thơ giống như tiếng nói của nàng tự nhủ thầm với lòng mình. Kiều đau đớn trong hoàn cảnh sống “bơ vơ” nơi đất khách quê người. Nàng đau đớn khi tấm lòng son của mình đã bị dập vùi hoen ố không biết bao giờ mới có thể gột rửa cho sạch. Tuy nhiên câu thơ cũng có thể hiểu theo một cách khác. Đó là tấm lòng son sắt của Kiều đối với Kim Trọng không bao giờ phai nhòa, và tình yêu chung thủy của nàng không thể bị vùi lấp. 

- Đọc đến đây, người đọc sẽ thắc mắc tại sao Nguyễn Du lại để Kiều nhớ về Kim Trọng trước mà không phải cha mẹ? Ta dễ dàng nhận thấy sự tinh tế trong ngòi bút của đại thi hào. Ông đã khắc họa được tâm lí của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh. Khi gia đình  gặp cơn tai biến, Kiều đã quyết bán mình chuộc cha và em trai, tức là Kiều đã đặt chữ “hiếu” lên trên chữ “tình”. Và giờ đây, khi gia đình đã ổn định, Kiều lại sống một thân một mình nơi xa, nên tác giả để Kiều nhớ về Kim Trọng trước là hợp lí. Đồng thời, từ sau khi bán mình theo Mã Giãm Sinh, nàng đã xa Kim Trọng một thời gian dài và giờ đây, Kiều đang bị ép làm gái lầu xanh nên luôn có suy nghĩ mặc cảm mình đã phụ chàng Kim. Vì vậy, tác giả đã để cho Kiều nhớ về Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với tâm lí nhân vật.

- Tác giả còn để cho Kiều nhớ về cha mẹ

   “Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”

   Bằng động từ “xót”, tác giả đã diễn tả nỗi đau đớn khổ tâm của Kiều, người con gái vốn giàu lòng vị tha, hiếu thảo nay phải xa cách cha mẹ. Nàng đã quên hẳn nỗi đau đớn, tủi cực của mình để được sống với cha mẹ trong tâm tưởng. Nàng hình dung ra nơi quê nhà, cha mẹ đang tựa cửa ngóng trông nàng trở về. Nàng đau khổ, day dứt, trăn trở vì không làm tròn bổn phận của đạo làm con. Tác giả sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” đẻ thể hiện tâm trạng lo lắng cho cha mẹ của Kiều. Nàng lo rằng, vào những ngày hè nóng nực, ai sẽ là người quạt cho cha mẹ ngủ? Còn những ngày đông giá lạnh, ai sẽ vào giường nằm trước để lấy hơi ấm cho cha mẹ nằm?     

- Kiều thật là một người con hiếu thảo

   “Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

   Tác giả sử dụng điển tích “Sân Lai”, “gốc tử” để diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ. Trong tâm trí của nàng, từ khi xa nhà đến nay, thời gian đã làm cho cảnh quê thay đổi. Cha mẹ lại càng ngày càng thêm già yếu, vậy mà nàng lại không thể ở bên cạnh chăm sóc, phụng dưỡng. Càng nghĩ, Kiều càng xót cho cha mẹ mình. Mặc dù trong cảnh ngộ hiện tại, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng không hề nghĩ tới mình mà chỉ nghĩ đến người thân. Điều đó đã làm nên phẩm chất cao quý tốt đẹp của nàng. Đó là tấm lòng vị tha, hiếu thảo với cha mẹ và sự thủy chung, nhân hậu với người yêu.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
32. lưu trường
Xem chi tiết
Laura
Xem chi tiết
nguyễn bạch tiến sang
Xem chi tiết
minh nguyet
15 tháng 10 2021 lúc 16:00

Em tham khảo:

Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ của nền văn học dân tộc từ xưa đến nay. Không những thành công về nội dung, Truyện Kiều còn đạt được những giá trị nghệ thuật chưa từng có, góp phần nâng cao sức mạnh biểu đạt ngôn ngữ dân tộc và đưa thể thơ lục bát lên đỉnh cao chói lọi.

Nguyễn Du đã dồn hết tâm lực để gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Nhưng nhà thơ lại khiến cho người đọc ngạc nhiên hơn khi miêu tả bức chân dung miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều. Bằng cách nhấn thêm mấy chữ: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”, Nguyễn Du làm người đọc thích thú, háo hức đi tìm vẻ đẹp ấy. Nghệ thuật tả khách hình chủ khéo léo gợi ra bức chân dung người chị với vẻ đẹp hơn hẳn người em gấp bội lần:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Thủ pháp ước lệ được vận dụng tài tình. Nguyễn Du không tả mà chỉ gợi ra trước mắt người đọc một pho tuyệt sắc. Dường như tất cả những gì tinh túy nhất của đất trời đã hội tụ vào hình dung ấy. Nhân vật không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp cả trong phẩm chất và tài năng. Vẻ đẹp ấy thu hút mạnh mẽ ánh nhìn, càng ngắm càng thấy say mê.

Phụ từ “càng” nhấn mạnh và làm tăng tiến mức độ của vẻ đẹp và tài năng ấy. Cái tài của Nguyễn Du thể hiện ở sự linh hoạt trong ngôn ngữ khi miêu tả nhân vật. Ông không lặp lại cách tả chi tiết như đã tả thúy Vân. Ở Kiều có tất cả vẻ đẹp mà Thúy Vân có. Nhưng nàng sắc sảo, mặn mà hơn. Thúy Kiều không những xinh đẹp mà còn có nhiều tài năng.

Thiên tài họ Nguyễn tập trung gợi tả đôi mắt và hàng chân mày của Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Đôi mắt Kiều trong veo như mặt nước hồ thu êm ả. Đôi mắt ấy lại được điểm tô bằng hàng chân mày thanh tú và đầy dặn như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của người con gái đang độ tuổi phơi phới thanh xuân.

Một lần nữa người đọc nhận ra sự sáng tạo của nhà thơ. Nếu ở Thúy Vân, nhà thơ dùng những hình ảnh nhẹ nhàng, đằm thắm (mây, hoa, nguyệt, tuyết…) thì ở Thúy Kiều, Nguyễn Du lựa chọn hình ảnh cao lớn, rộng dài, sâu thẳm hơn (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu,..). Thủ pháp tăng tiến về mức độ khiến cho vẻ đẹp của Thúy Kiều càng thêm sinh động. Qua đó, tác giả muốn khẳng định, đó là vẻ đẹp toàn mĩ, không gì sánh bằng. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Du một lần nữa nâng vẻ đẹp của Thúy Kiều lên hạng tuyệt đỉnh, chưa từng nhìn thấy ở trên đời:

“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều có thể làm chao đảo mọi tâm hồn. Nếu tài năng của nàng có thể có hai người thì sắc đẹp của nàng là duy nhất, chưa từng có ở trên đời này. Có thể nguyễn Du đã phóng đại sắc đẹp ấy lên nhiều lần. Song qua đó giúp ta thấu hiểu được tình cảm lớn lao mà tác giả đã cho nhân vật của mình.

 

Thúy Kiều được xây dựng như một con người toàn mĩ: kì tài và tuyệt sắc. Thế nhưng, thật đáng tiếc thay, vẻ đẹp ấy lại không thể hòa hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Nó khiến cho thiên nhiên phải “hờn ghen”, lòng người muôn phần đố kị: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Qua bức chân dung của Thúy Kiều, người đọc không khỏi bồi hồi dự cảm về một số phận đầy trái ngang, trắc trở của nàng về sau. Một cuộc đời đầy nghiệt ngã đang đón đợi nàng phía trước. Tấm lòng thương người của thiên tài Nguyễn Du là ở đây.

Bình luận (1)
32. lưu trường
Xem chi tiết
trung kiên
Xem chi tiết
Minh Vu
Xem chi tiết
︵✰Ah
12 tháng 1 2022 lúc 8:10

Tham Khảo 
 

- Cặp lục bát 1: Phân tích hình ảnh “cửa bể chiều hôm”, “cánh buồm xa xa” gợi tả nỗi buồn của Kiều khi nghĩ về cha mẹ - những người sinh thành ra mình, nàng cảm thấy xót xa.

- Cặp lục bát 2: Phân tính hình ảnh “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi man mác” gợi tả nỗi mông lung lo lắng của Kiều không biết cuộc đời sẽ trôi đi đâu về đâu. Tâm trạng của Thúy kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực.

- Cặp lục bát 3: Phân tích hình ảnh “nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất” gợi tả sự vô định của Kiều. Từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương, màu xanh tàn úa, héo hắt.

- Cặp lục bát 4: Phân tích hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh”, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” gợi sự sợ hãi, hoảng hốt của Kiều. Sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều, cũng là những phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua.

=> Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Bình luận (0)
tram tran
23 tháng 10 2022 lúc 15:42

 Tâm trạng của kiều ở lầu Ngưng Bích là : sống trong nỗi cô đơn, buồn bã nhớ thương người thân, lo cho tương lai của mik

Bình luận (0)
minh nguyễn
Xem chi tiết
minh nguyet
21 tháng 10 2021 lúc 19:34

Em tham khảo:

Trong cảnh ngộ cô đơn, bẽ bàng, Thúy Kiều nhớ về người yêu và cha mẹ. Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau vì những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nếu như khi nhớ Kim Trọng, Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm trong tình yêu, thì khi nhớ tới cha mẹ lòng nàng lại đầy xót xa và lo lắng. Những từ ngữ hình ảnh thể hiện điều đó:

-  Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.” Chữ “tưởng” vừa là nhớ vừa là hình dung, tưởng tượng ra hình ảnh của người yêu. “Dưới nguyệt chén đồng” là đang nhớ về kỷ niệm mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng ở quê nhà đang hướng về mình, tin tưởng và chờ mong uổng công vô ích: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”

“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”: Câu thơ có hai cách hiểu

Tấm lòng Kiều nhớ thương Kim Trọng không bao giờ phai mờ, nguôi quên.

Tấm lòng của Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm cho hoen ố, phải gột rửa đến bao giờ cho sạch.

- Khi nhớ về cha mẹ, tác giả dùng từ “xót” để thể hiện tấm lòng xót xa, lo lắng cho cha mẹ của Thúy Kiều. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con trong vô vọng. Nàng xót xa khi nghĩ đến cha mẹ tuổi già sức yếu mà mình không thể ở bên chăm sóc. Không biết giờ đây ai là người chăm lo “quạt nồng ấp lạnh”. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điểm cố Xuân Lai, gốc Tử đều để nói về tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.

=> Trong cảnh ngộ bơ vơ nơi góc bể chân trời, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng quên đi cảnh ngộ bản thân để nghĩ đến Kim Trọng và cha mẹ. Điều đó cho thấy Kiều là người có tấm lòng thủy chung, người con hiếu thảo,  người có lòng vị tha đã trân trọng.

Bình luận (0)